CHẾ ĐỘ DINH DƯỠNG TĂNG SỨC ĐỀ KHÁNG DÀNH CHO NGƯỜI CAO TUỔI

Nhóm người mắc bệnh COVID - 19 chiếm tỷ cao là những người cao tuổi và người có bệnh nền mạn tính do có sức đề kháng và hệ miễn dịch kém hơn. Một chế độ dinh dư

Theo ThS. BS Nguyễn Văn Tiến – Viện Dinh Dưỡng, nhu cầu năng lượng của người 60 tuổi giảm đi 20% và ở người trên 70 tuổi giảm đi 30% so với người 25 tuổi. Theo khuyến nghị với người cao tuổi nhu cầu về năng lượng là từ 1700-1900 kcal/người/ngày trong đó protein từ 60-70 gam/ngày (đạm động vật chiếm 30% tổng số protein). Thay vì ăn nhiều thịt thì người cao tuổi hạn chế và ăn nhiều các thực phẩm giàu canxi như: tôm, cua, cá,... Nên ăn ít nhất 3 bữa cá/1 tuần, 3 quả trứng/ 1 tuần, nên ăn thêm sữa chua vì sữa chua dễ tiêu và có lợi cho tiêu hóa. Tỷ kệ chất báo trong thực vật chiếm 35% tổng lượng chất béo do đó nên ăn cả dầu thực vật và mỡ thực vật

Ăn đầy đủ 3-4 bữa mỗi ngày, thức ăn nóng (luộc, hấp nấu chín mềm) nếu ăn không đủ nên uống thêm sữa bổ sung dinh dưỡng hàng ngày

Những người đang mắc các bệnh nền, bệnh mạn tính như: bệnh tim, bệnh đái tháo đường, tăng huyết áp, bệnh đường hô hấp,... cần thực hiện nghiêm chế độ dinh dưỡng bệnh lý và sử dụng thuốc điều trị thường xuyên theo chỉ định của bác sĩ

Một số vitamin và khoáng chất giúp nâng cao sức đề kháng và hệ miễn dịch:

Vitamin A: Có nhiều trong gấc, rau ngót, rau dền cơm, gan động vật,..rất tốt cho hệ miễn dịch dịch thể và miễn dịch tế bào. Tỷ lệ tử vong do nhiễm khuẩn ở trẻ em mà nguyên nhân do thiếu vitamin A rất cao. Những nghiên cứu gần đây đã khẳng định rằng biện pháp bổ sung vitamin A có thể làm giảm 23% tử vong ở trẻ em. Thiếu vitamin A làm giảm sức đề kháng – miễn dịch tăng nguy cơ mắc bệnh nhiễm trùng và tăng tỷ lệ tử vong ở trẻ em. Thiếu vitamin A các biểu mô quá sản, sừng hoá, các tuyến ngoại tiết giảm bài tiết, khả năng ngăn cản sự xâm nhập của vi khuẩn giảm đi. 

Vitamin E: Vitamin E có nhiều trong thực phẩm nguồn gốc tự nhiên như: các loại rau có màu lá xanh đậm, đậu tương, giá đỗ, dầu hướng dương, dầu ô liu,..giúp làm tăng tính miễn dịch bảo vệ tế bào khỏi bị tổn thương tránh các bệnh nhiễm khuẩn mạnh hơn. Vitamin E làm chậm tiến triển bệnh sa sút trí tuệ (Alzheimer), bảo vệ vitamin A và chất béo (omega 3 DHA và EPA) của màng tế bào khỏi bị o xy hóa, tham gia vào chuyển hóa tế bào. 

Vitamin C: có nhiều trong các loại trái cây và rau củ (90%) như rau ngót, rau đay, rau dền, các loại hoa quả họ cam,... cần thiết cho các tế bào miễn dịch T và bạch cầu giúp tăng cường miễn dịch. Ăn đủ vitamin C kích thích chuyển dạng các lymphô bào và giúp tạo thành các bổ thể do các glubulin miễn dịch IgA và IgM, hoạt tính của bạch cầu tăng. Do đó nếu thiếu vitamin C, cơ thể dễ bị các bệnh nhiễm khuẩn tăng lên, tính thấm mao mạch tăng, mạch dễ vỡ, da khô ráp. 

Vitamin D: có nhiều trong hải sản, gan cá,....và đặc biệt  nguồn chính là ở da dưới ảnh hưởng của bức xạ tia cực tím mặt trời B (UV-B) do đó cần tắm nắng 15-30 phút mỗi ngày còn 10-20% do chế độ ăn uống. Vtamin D có liên quan đến các chức năng khác nhau của hệ thống miễn dịch, tiêu hóa, tuần hoàn và thần kinh và là một vitamin tan trong chất béo

Vitamin nhóm B: Trong các vitamin nhóm B, vai trò các folat và pyridoxin đáng chú ý hơn cả. Thiếu folat làm chậm sự tổng hợp của các tế bào tham gia vào các cơ chế miễn dịch. Tương tự như thiếu sắt, miễn dịch dịch thể ít bị ảnh hưởng hơn miễn dịch qua trung gian tế bào. Trên thực tế ở trẻ em nhất là phụ nữ có thai, thiếu folat thường đi kèm thiếu sắt là hai yếu tố gây thiếu máu dinh dưỡng và nếu thiếu pyridoxin (vitamin B6) chức năng miễm dịch, cả dịch thể và trung gian tế bào sẽ chậm. Các vitamin  nhóm B có nhiều trong cám gạo, ngũ cốc, các loại hạt đậu, mè, mầm lúa mì, tim, gan.

Một số chất khoáng và miễn dịch.

Sắt: có nhiều trong mộc nhĩ, nấm hương, cua đồng, lòng đỏ trứng vịt,....Sắt cần thiết cho tổng hợp AND (quá trình phân bào) và tham gia vào nhiều enzym trong quá trình phân giải bên trong tế bào. Thiếu sắt, nhiễm khuẩn tăng do sắt gây ảnh hưởng đến hệ miễn dịch qua trung gian tế bào hơn là miễn dịch dịch thể. 

Kẽm: Kẽm giúp tăng cường miễn dịch, giúp làm vết thương mau lành và giúp duy trì vị giác và khướu giác. Kẽm tham gia vào hàng trăm enzym chuyển hóa trong cơ thể, vì vậy khi thiếu kẽm trẻ dễ mắc các bệnh nhiễm khuẩn đường hô hấp, tiêu hóa do giảm sức đề kháng. Ngoài ra khi thiếu kẽm trẻ thường có biểu hiện biếng ăn chậm lớn, chậm phát triển chiều cao. Các thức ăn giàu kẽm như thịt, cá, tôm, sò, sữa, trứng, ngao, hàu,..

100g của một số loại rau xanh và hoa quả có giá trị dinh dưỡng như sau: 

Rau xanh: những loại có gía trị dinh dưỡng cao, đồng đều như rau đay, rau ngót, rau dền có hàm lượng sắt (2,8 - 2,5 - 2,1 mg%); hàm lượng caroten, vitamin C  (179 – 64 - 52 mg%), giàu các muối khoáng, vi khoáng, lượng protein cao gấp 3 - 5 lần các loại rau khác (3 - 6 g%) còn trong Rau muống có giá trị 380 mcg% retinol; 2,8 mg% vitamin C; 1,2 mg% sắt.

Các loại rau gia vị như: những loại có hàm lượng caroten cao và đồng đều hơn so với rau ăn và quả ngọt như tía tô, húng quế, ớt vàng, đồng thời chúng giàu sắt (1- 3 mg% ). Rau gia vị lại được sử dụng tươi sống không bị tổn thất dinh dưỡng qua nấu nướng, nên giá trị sử dụng các vitamin rất cao. Ngoài ra các rau gia vị còn cung cấp nguồn kháng sinh thực vật rất có giá trị.

Các loại quả chín màu vàng, đỏ, da cam như: đu đủ, hồng, dưa hấu, cam, quýt vàng có hàng lượng caroten khá cao và giàu sắt (0,9 - 1,2 mg%). Đặc biệt màng gấc tươi có hàm lượng caroten đặc biệt cao có khả năng phòng bệnh thiếu vitamin A, chống oxy hoá và ung thư.

text_related

024 2214 7777

© Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Thiên Đức. All rights reserved.